Nhằm giảm thủ tục hành chính, giảm thời gian giải quyết miễn thuế, tại dự thảo sửa đổi Nghị định 134/2016/NĐ-CP, Bộ Tài chính sẽ sửa đổi, bổ sung quy định về miễn thuế nhập khẩu đối với hàng hoá không nhằm mục đích thương mại; hàng hoá nhập khẩu phục vụ nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ; hàng hoá nhập khẩu phục vụ trực tiếp cho an ninh quốc phòng; hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu phục vụ bảo đảm an sinh xã hội, khắc phục hậu quả thiên tai, thảm họa, dịch bệnh và các trường hợp đặc biệt khác.
Hàng hóa không nhằm mục đích thương mại
Theo phân tích của ban soạn thảo, tại Khoản 1 Điều 27 quy định hàng hóa không nhằm mục đích thương mại được miễn thuế NK trong các trường hợp sau: “Hàng mẫu, ảnh về hàng mẫu, phim về hàng mẫu, mô hình thay thế cho hàng mẫu có trị giá hải quan không vượt quá 50.000 đồng Việt Nam hoặc đã được xử lý để không thể được mua bán hoặc sử dụng, chỉ để làm mẫu”. Tuy nhiên quy định này chưa nêu rõ giới hạn trị giá 50.000 đồng cho một lô hàng hay cho từng mặt hàng nên trường hợp DN NK 1 lô hàng mẫu gồm nhiều mặt hàng, trị giá mỗi mặt hàng dưới 50.000 đồng, nhưng trị giá của cả lô hàng trên 50.000 đồng thì đã phát sinh vướng mắc (không rõ sẽ được miễn thuế cho cả lô hàng hay cho từng mặt hàng).
Vì vậy, để bảo đảm minh bạch, tại khoản 1 Điều 27 đã được ban soạn thảo sửa đổi, bổ sung như sau “1. Hàng mẫu, ảnh về hàng mẫu, phim về hàng mẫu, mô hình thay thế cho hàng mẫu có trị giá hải quan không vượt quá 50.000 đồng Việt Nam theo từng lần nhập khẩu hoặc đã được xử lý để không thể được mua bán hoặc sử dụng, chỉ để làm mẫu.”
Hàng hoá phục vụ nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ
Quy định miễn thuế đối với hàng hoá NK phục vụ nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ, tại điểm d khoản 2 Điều 40 Nghị định 134 quy định Bộ khoa học và công nghệ có trách nhiệm ban hành: Danh mục hoặc tiêu chí xác định “Tài liệu, sách báo, tạp chí khoa học chuyên dùng sử dụng trực tiếp cho nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ, ươm tạo doanh nghiệp khoa học và công nghệ, đổi mới công nghệ”. Tuy nhiên, tại khoản 3 Điều 19 không quy định về miễn thuế đối với Danh mục hoặc tiêu chí xác định tạp chí khoa học là chưa thống nhất với quy định tại điểm d khoản 2 Điều 40.
Bên cạnh đó, quy định tại điểm c, điểm d khoản 4 Điều 19 tăng thủ tục hành chính cho người nộp thuế do hồ sơ miễn thuế quy định tại điểm b, c khoản 4 Điều 19 chỉ phù hợp trong trường hợp Bộ Khoa học và Công nghệ chưa ban hành Danh mục hoặc tiêu chí xác định hàng hóa nhập khẩu sử dụng trực tiếp cho nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ, phát triển hoạt động ươm tạo công nghệ, ươm tạo doanh nghiệp khoa học và công nghệ, đổi mới công nghệ. Hiện tại, Điều 31 Nghị định đã quy định thủ tục miễn thuế khi làm thủ tục hải quan nói chung, bao gồm cả trường hợp miễn thuế tại Điều 19 Nghị định. Mặt khác, Bộ Khoa học và Công nghệ đang xây dựng Thông tư hướng dẫn miễn thuế hàng hóa nhập khẩu phục vụ nghiên cứu, khoa học phát triển công nghệ quy định tại khoản 21 Điều 16 Luật Thuế XNK, Điều 19 Nghị định số 134/2016/NĐ-CP.
Tại điểm d khoản 2 Điều 40 Nghị định 134 quy định Bộ khoa học và công nghệ có trách nhiệm ban hành: Danh mục hoặc tiêu chí xác định “Tài liệu, sách báo, tạp chí khoa học chuyên dùng sử dụng trực tiếp cho nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ, ươm tạo doanh nghiệp khoa học và công nghệ, đổi mới công nghệ”, tuy nhiên, tại Khoản 3 Điều 19 lại không quy định về miễn thuế đối với Danh mục hoặc tiêu chí xác định tạp chí khoa học là chưa thống nhất với quy định tại điểm d khoản 2 Điều 40. Vì vậy, cần bổ sung cụm từ “tạp chí khoa học” vào khoản 3 Điều 19 cho thống nhất với quy định tại điểm d, khoản 2 Điều 40.
Cùng với đó, Khoản 4 Điều 19 quy định thêm một số giấy tờ ngoài các hồ sơ miễn thuế quy định tại Điều 31. Theo đánh giá của cơ quan Hải quan, các hồ sơ quy định tại điểm c, điểm d khoản 4 Điều 19 đều làm tăng thủ tục hành chính cho người nộp thuế và chỉ phù hợp trong trường hợp Bộ Khoa học và Công nghệ chưa ban hành Danh mục hoặc tiêu chí xác định hàng hóa NK sử dụng trực tiếp cho nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ, phát triển hoạt động ươm tạo công nghệ, ươm tạo DN khoa học và công nghệ, đổi mới công nghệ.
Hiện tại, Điều 31 Nghị định đã quy định thủ tục miễn thuế khi làm thủ tục hải quan nói chung, bao gồm cả trường hợp miễn thuế tại Điều 19 Nghị định. Mặt khác, Bộ Khoa học và Công nghệ đang xây dựng Thông tư hướng dẫn miễn thuế hàng hóa NK phục vụ nghiên cứu, khoa học phát triển công nghệ quy định tại khoản 21 Điều 16 Luật Thuế XNK, Điều 19 Nghị định số 134/2016/NĐ-CP nên cần thiết bỏ toàn bộ các giấy tờ quy định tại khoản 4 Điều 19 để thực hiện thống nhất theo quy định tại Điều 31 nghị định số 134/2016/NĐ-CP.
Hàng hóa NK phục vụ trực tiếp cho an ninh quốc phòng
Tại điểm b khoản 4 Điều 20 quy định thủ tục miễn thuế đối với trường hợp miễn thuế sau khi làm thủ tục hải quan. Theo phản ánh của cơ quan Hải quan, quy định này không phù hợp với quy định của luật thuế số 107/2016/QH13 vì hàng hoá được miễn thuế phải hoàn tất hồ sơ miễn thuế tại thời điểm trước hoặc trong khi thông quan hàng hoá, giải phòng hàng. Quy định tại điểm b khoản 4 Điều 20 đã làm phát sinh nợ thuế, cơ quan Hải quan phải theo dõi số nợ thuế phát sinh cho đến thời điểm có văn bản Thông báo miễn thuế của Tổng cục Hải quan và trên thực tế, rất nhiều hồ sơ miễn thuế nộp chậm so với quy định tại khoản 4 Điều 20 từ vài tháng đến nửa năm dẫn đến phát sinh tiền nợ thuế rất lớn trên hệ thống theo dõi nợ thuế.
Vì vậy, theo ban soạn thảo, cần phải bỏ toàn bộ quy định tại điểm b khoản 4 Điều 20 để thống nhất với các trường hợp miễn thuế khác đều đã được miễn ngay tại khâu trước và trong thông quan, cắt giảm thủ tục hành chính, tạo thuận lợi trong thực hiện.
Sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 24 về căn cứ miễn thuế nguyên liệu, vật tư, linh kiện nhập khẩu phục vụ trực tiếp cho hoạt động sản xuất sản phẩm công nghệ thông tin, nội dung số phần mềm.
Tại khoản 5 Điều 40 Nghị định 134/2016/NĐ-CP quy định, Bộ Thông tin và Truyền thông ban hành Danh mục hoặc tiêu chí để xác định nguyên liệu, vật tư, linh kiện NK phục vụ trực tiếp cho hoạt động sản xuất sản phẩm công nghệ thông tin, nội dung số, phần mềm. Tuy nhiên, khoản 2 Điều 24 Nghị định 134 không quy định về căn cứ để miễn thuế đối với hàng hóa nhập khẩu thực hiện theo quy định của Bộ Thông tin và Truyền Thông là chưa thống nhất. Vì vậy, theo ban soạn thảo, cần thiết phải bổ sung một nội dung tại khoản 2 Điều 24 như sau: Căn cứ để xác định nguyên liệu, vật tư, linh kiện NK phục vụ trực tiếp cho hoạt động sản xuất sản phẩm công nghệ thông tin, nội dung số, phần mềm thực hiện theo quy định của Bộ Thông tin và Truyền thông.
Sửa đổi, bổ sung khoản 4,5 Điều 28 miễn thuế hàng hóa XK, NK phục vụ bảo đảm an sinh xã hội, khắc phục hậu quả thiên tai, thảm họa, dịch bệnh và các trường hợp đặc biệt khác.
Tại điểm c khoản 1 Điều 28 quy định “Hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu trong các trường hợp đặc biệt khác được Thủ tướng Chính phủ quyết định từng trường hợp cụ thể được miễn thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu” nhưng không quy định cụ thể về hồ sơ và thủ tục đề nghị miễn thuế trong trường hợp đặc biệt khác được Thủ tướng Chính phủ quyết định cho miễn thuế. Vì vậy cần thiết phải bổ sung sửa đổi, khoản 4,5 Điều 28 quy định rõ nội dung của hồ sơ và thủ tục miễn thuế trong trường hợp đặc biệt khác được Thủ tướng Chính phủ quyết định cho miễn thuế.
|